Hôm nay (28/2), nhân dịp kỉ niệm sinh nhật lần thứ 80 của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, trang Google tiếng Việt đã vinh danh ông trên Google Doodles.
Google Doodles là những biểu tượng đặc biệt, thay thế tạm thời cho biểu tượng Google trên trang chủ Google.com nhằm chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện, thành tựu và nhân vật có đóng góp quan trọng ở nhiều lĩnh vực cho cộng đồng ở đất nước mình, hay cho nhân loại.
Trên trang chủ Google Tiếng Việt (Google.com.vn) từ năm 2003 đến nay đã có nhiều tác phẩm Doodles như cách mà Google tôn vinh nét văn hoá đặc trưng tại Việt Nam cũng như vinh danh những ngày lễ truyền thống như Ngày Nhà giáo Việt Nam, Tết Trung thu, Tết Nguyên đán, Ngày Quốc khánh…
Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên được Google Doodles vinh danh. Điều này khiến nhiều người thắc mắc, rằng Trịnh Công Sơn tài giỏi và có tầm ảnh hưởng lớn tới cỡ nào?
Nhạc sĩ tài hoa có tầm ảnh hưởng vươn ra thế giới
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ Việt Nam hiếm hoi có sự nổi tiếng và sức ảnh hưởng vươn tầm thế giới. Được biết, ông đã bán được 2 triệu băng đĩa nhạc tại Nhật Bản – một con số kỉ lục mà chưa nhạc sĩ Việt nào đạt được.
Không những vậy, ông cũng là nhạc sĩ Việt được người Nhật yêu thích nhất. Họ viết cả lời Nhật cho những ca khúc của ông để ca sĩ của họ được biểu diễn, điển hình như ca khúc Diễm xưa. Rất nhiều ca sĩ nổi tiếng ở Nhật đã hát lại ca khúc này như Tokiko Kato, Yoshimi Tendo, Aya Shimazu…
Nhạc Trịnh Công Sơn còn thường xuyên được hát trong Kohaku Uta Gassen – chương trình Âm nhạc Đêm giao thừa thường niên của đài truyền hình quốc gia Nhật Bản NHK trước hàng triệu khán giả và hàng loạt sân khấu lớn nhỏ khác.
Bản thân ca sĩ Khánh Ly cũng là một trong số ca sĩ Việt Nam đầu tiên được hát tại Nhật nhờ nhạc Trịnh.
Các trường đại học âm nhạc, văn hóa của Nhật, Trung và Việt Nam cũng liên tục thực hiện các đề tài, luận văn cao học, luận án tiến sĩ về nhạc Trịnh.
Có thể nói, Trịnh Công Sơn là tác giả hiếm hoi được nghiên cứu đầy đủ dưới nhiều bình diện như âm nhạc, văn hóa, ngôn ngữ, văn học… Ở mảng nào, ông cũng có đóng góp và gây dựng tầm ảnh hưởng to lớn.
Sở dĩ người Nhật yêu thích Trịnh Công Sơn đến như vậy vì âm hưởng chất nhạc, nội dung, tinh thần của nhạc Trịnh rất đậm hồn Đông phương và gắn chặt với cả một thời kì lịch sử, văn hóa, thể hiện triết lí Á Đông đậm đặc.
Trịnh Công Sơn cũng được báo chí và cộng đồng quốc tế nhắc đến như “Bob Dylan của Việt Nam” (BBC), “Nhạc sĩ được yêu mến nhất tại Việt Nam” (The Washington Post)
Tại Việt Nam, hiếm có nhạc sĩ nào sáng tác nhiều như Trịnh Công Sơn, với 600 ca khúc. Trong đó, có tới 236 ca khúc được phổ biến rộng rãi. Người dân Việt Nam không ai là không biết nhạc Trịnh vì nó len lỏi vào từng ngõ ngách, tầng lớp dân chúng.
Ca sĩ Việt hầu như đều từng hát nhạc Trịnh. Nhạc Trịnh năm nào cũng được hoặc mở lên ở mọi sân khấu, dưới nhiều hình thức khác nhau. Đây là loại nhạc duy nhất dung hòa được từ bác học tới bình dân, khiến ca sĩ mọi thế hệ, dòng nhạc đều hát được.
Trình độ sử dụng ca từ đạt tới nghệ thuật bậc cao
Khác với nhiều nhạc sĩ khác, ngoài giai điệu đẹp, nhạc Trịnh Công Sơn nổi bật hơn hẳn ở phần ca từ. Ca từ trong nhạc của ông đậm chất thơ, đa dạng về từ vựng, độc đáo về ngữ pháp, phong phú về thanh điệu và ẩn chứa nhiều mã nghệ thuật khác nhau.
Nói cách khác, nếu tách bỏ phần nhạc, thì phần lời của nhạc Trịnh thực sự đã làm nên những bài thơ xuất sắc, có đóng góp không nhỏ vào nền thi ca Việt Nam và làm giàu đẹp tiếng Việt.
Nhạc sĩ Văn Cao từng nói: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người của thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ…
Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra“.
Trong ca từ nhạc Trịnh thể hiện đầy đủ mọi nghệ thuật ngôn ngữ tiếng Việt, từ việc sử dụng từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, từ lạ hóa tới điệp ngữ, điệp vần, hài thanh, câu hỏi tu từ, câu đặc biệt, ẩn dụ, hoán dụ… Tất cả đều đạt tới trình độ cao.
Chẳng hạn, có một nghiên cứu từng chỉ ra trong 139 ca khúc nhạc Trịnh thì có 210 câu hỏi tu từ, mỗi câu là một hình thức tu từ khác nhau với dụng ý nghệ thuật riêng.
Trịnh Công Sơn sử dụng rất nhiều ẩn dụ lạ hóa, độc đáo. Trong ca khúc Diễm xưa, đoạn “mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ” vừa chỉ chiếc tháp cổ kính, lại vừa ẩn ý về tháp cổ trắng ngần của người con gái vướng phải bụi trần.
Hay, trong ca khúc “Chiều một mình qua phố”, từ “nắng khuya” dùng để chỉ ánh trăng, hoặc ánh đèn đường.
Tư tưởng lớn mang tầm vóc nhân loại
Ở nước ngoài, người ta gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan của Việt Nam cũng có lí do của nó. Cả hai nhạc sĩ này đều viết nhạc phản chiến, với tinh thần hiện sinh chủ nghĩa đậm đặc.
Chủ nghĩa hiện sinh là một khuynh hướng triết học, mỹ học, một phong trào văn hóa thịnh hành trước và nhất là sau chiến tranh thế giới thứ II, từng gây bão trong giới trẻ phương Tây nửa cuối thế kỉ XX, được phản ánh rộng rãi trong văn học Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản.
Cùng với sự phát triển của văn hóa đại chúng (Pop Culture) trong những thập niên cuối của thế kỉ, nó đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới và gây dựng một tầm ảnh hưởng lớn trên nhiều vùng quốc gia, lãnh thổ.
Tại Việt Nam, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ hiếm hoi tiếp thu và thể hiện tinh thần hiện sinh chủ nghĩa một cách sớm nhất qua các sáng tác của mình như Để gió cuốn đi, Ngẫu nhiên…
Trong nhạc của ông còn tiếp thu sâu sắc triết học Phật giáo nguyên thủy, từ vô thường, sự sống, cái chết tới an nhiên, tự tại. Tinh thần Phật giáo được thể hiện rõ nhất qua Cát bụi, Một cõi đi về…
Đây đều là những thứ tư tưởng lớn, mang tầm vóc nhân loại. Bởi vậy, người ta mới nói, nhạc Trịnh là cả một mã văn hóa.
Không những vậy, nhạc Trịnh còn là chứng nhân lịch sử cho một thời kì bão táp, thăng trầm của dân tộc. Nhưng trên hết, đó vẫn là tiếng nói yêu hòa bình, yêu con người.
Theo Trí thức trẻ/Soha