Thứ hai, Tháng mười hai 23
Shadow

Sợ con bị lùn, cho uống canxi có cao lên không? Cần làm gì để trẻ tăng chiều cao tối ưu?

Đây là những điều bạn cần biết về sự phát triển chiều cao ở trẻ và những điều cha mẹ cần làm để hỗ trợ trẻ phát triển chiều cao tối ưu.

Bài viết này của Bác sĩ Tiểu Bạch, chuyên gia Nhi khoa đăng trên Kênh Nhi khoa Y tế (Meidical Community Pediatrics Channel) bàn về sự tăng trưởng chiều cao của trẻ và những yếu tố liên quan đến canxi. Chúng ta cùng tìm hiểu.

* Phần chuyên môn sâu liên quan trong bài viết này dành cho người có kiến thức chuyên khoa tham khảo.

1, Trẻ thấp lùn, không chỉ là do thiếu canxi và suy dinh dưỡng

Cách đây ít lâu, một người bạn hỏi: “Cháu nhà tôi thấp hơn nửa vòng đầu so với những đứa trẻ cùng tuổi. Bây giờ đang là tuổi ăn tuổi lớn của cháu, liệu bổ sung canxi cho cháu có hiệu quả không?”

Tôi nói: “Hãy đưa con bạn đi khám để đánh giá, xem có cần các xét nghiệm liên quan khác không.” Một lúc lâu sau, bạn tôi mới trả lời: “Được.”

Hôm nay có một người khác lại bạn than thở với tôi, vì chiều cao của tôi không được lý tưởng nên những ngày tháng trước đây cứ mù quáng đâm đầu vào tường, bây giờ nhìn lại năm đó, tôi hối hận vì đã không ăn nhiều thịt, trứng, sữa, nếu được ăn ngon và bổ dưỡng thì tôi có thể có một bước nhảy vọt về chiều cao rồi.

Như vậy, thấp bé có phải thực sự liên quan đến việc thiếu canxi hay suy dinh dưỡng? Hãy cùng nhau nhìn lại những điều này.

Đặc điểm tăng trưởng chiều cao của trẻ

Trẻ em có hai đỉnh cao tăng trưởng, đó là giai đoạn sơ sinh và tuổi vị thành niên. Hầu hết trẻ sơ sinh đều có chiều dài lúc mới sinh là 50cm, và tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong năm đầu tiên, chiều dài tăng trưởng trong 3 tháng đầu bằng chiều dài tăng trưởng của 9 tháng tiếp theo, và chiều dài cơ thể khoảng 75cm lúc 1 tuổi.

Trong năm thứ hai, tốc độ phát triển chiều dài cơ thể chậm lại, khoảng 10cm, tức là lúc hai tuổi chiều dài cơ thể khoảng 85cm, và chiều dài cơ thể tăng thêm 5 – 7cm mỗi năm sau khi 2 tuổi. Dưới phạm vi này, được xem là trẻ có tốc độ tăng trưởng hơi chậm.

2, Tầm vóc chiều cao bao nhiêu được coi là thấp lùn?

Tầm vóc thấp có nghĩa là so với trẻ bình thường cùng độ tuổi và giới tính trên cùng khu vực có chiều cao thấp hơn 2SD (độ lệch chuẩn) của chiều cao bình thường hoặc thấp hơn phân vị thứ 3 của đường cong tăng trưởng của trẻ bình thường. (Tham khảo bảng dưới đây).

Giá trị tiêu chuẩn của chiều cao (chiều dài) đối với bé trai dưới 7 tuổi (cm).

Cột: Tuổi, Tháng, 3 cột chỉ số âm, ngưỡng trung bình, 3 cột chỉ số dương.

Giá trị tiêu chuẩn của chiều cao (chiều dài) đối với bé gái dưới 7 tuổi (cm)

Chú thích:

Chiều cao “-1sd ~ Chỉ số trung bình ~ + 1sd” ở mức “phạm vi bình thường”;

Chiều cao là “(-2sd ~ -1sd) hoặc (+ 1sd ~ + 2sd)” có nghĩa là “tương đối thấp/cao”;

Chiều cao là “(-3sd ~ -2sd) hoặc (+ 2sd ~ + 3sd)” có nghĩa là “thấp/cao”.

3, Những yếu tố nào liên quan đến chiều cao?

Yếu tố sinh học (di truyền, nội tiết, các bệnh trong tử cung và ngoài tử cung, các yếu tố gây quái thai, tiếp xúc với các chất độc hại, dinh dưỡng);

Yếu tố tâm lý (tính khí, hành vi, cảm xúc,… ảnh hưởng đến hành vi ăn uống và điều hòa nội tiết thần kinh);

Các yếu tố xã hội (giống thực phẩm, thói quen ăn uống, v.v.).

4, Con có bị thấp lùn, có phải do thiếu canxi và suy dinh dưỡng không?

Như đã nói ở đầu bài, nhiều người cho rằng thấp bé liên quan đến thiếu canxi, một số lại cho rằng liên quan đến suy dinh dưỡng, nhưng chúng ta hãy cùng xem xét các nguyên nhân sâu xa sau đây.

Chẳng hạn như thiếu hormone tăng trưởng (GHD), thấp lùn vô căn (ISS), thiếu hụt hormone đa tuyến yên (MPHD), nhỏ so với tuổi thai (SGA), chiều cao trung bình của gia đình thấp (FSS) và chậm phát triển thể chất (CDG), suy tuyến giáp, khối u tuyến yên , thiếu máu, tiêu chảy mãn tính, bệnh thận mãn tính, hen suyễn, achondroplasia, bệnh tim bẩm sinh, bệnh chuyển hóa di truyền, bệnh nhiễm sắc thể, v.v.

Ngoài ra, còn có các rối loạn tâm thần tâm lý gây ra thấp lùn.

Theo thống kê, những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tầm vóc thấp bé là do thiếu hụt hormone tăng trưởng và gây ra tình trạng tầm vóc thấp bé vô căn.

5, Cha mẹ lùn quá thì làm sao bắt con đột phá về chiều cao?

Trước hết, chúng ta cần nắm được thời kỳ vàng của sự tăng trưởng: Mùa xuân là mùa mà hormone tăng trưởng tiết ra nhiều nhất trong năm, vì vậy nó là “thời kỳ vàng” cho sự phát triển của trẻ. Thứ hai, chúng ta phải nắm bắt hai đỉnh tăng trưởng.

Xem thêm  Cô dâu 62 tuổi bất ngờ chia sẻ tâm thư trên FB: "Đúng! Tôi là bà già lắm tiền mua trai trẻ, chồng là thằng dân tộc lười biếng"

Vậy nên làm gì trong thời kỳ vàng, các phương pháp cụ thể như sau:

Chế độ dinh dưỡng là chìa khóa: Đảm bảo cung cấp đủ canxi và lượng protein chất lượng cao.

Tập thể dục là điểm mấu chốt: Tập thể dục rất tốt cho việc thúc đẩy sự tiết hormone tăng trưởng và thúc đẩy sự phát triển của xương. Các bài tập kéo căng là tùy chọn: chẳng hạn như bóng rổ, kéo xà, nhảy dây và chạy.

Giấc ngủ rất quan trọng: Hai khoảng thời gian tiết hormone tăng trưởng mạnh chủ yếu là 21: 00 ~ 01: 00 và 05: 00 ~ 07: 00. Vì vậy tốt nhất bạn nên cho trẻ chuẩn bị tắm rửa và đi ngủ lúc 20h để trẻ hình thành thói quen ngủ.

Tâm trạng là điều tất yếu: Cha mẹ luôn chỉ trích trẻ thì trẻ sẽ chán nản, phiền muộn, toàn thân ở trạng thái tương đối thấp sẽ ảnh hưởng đến quá trình bài tiết hormone, vì vậy, tâm lý vui vẻ là điều vô cùng quan trọng.

6, Làm thế nào để bổ sung canxi?

Có thể bổ sung vitamin AD sau sinh 15 ngày (D tốt cho quá trình hấp thụ canxi) và có thể bổ sung cho đến khi trẻ 3 tuổi.

Khuyến khích cho trẻ bú sữa mẹ trong thời kỳ sơ sinh (trong vòng 1 tuổi) và cung cấp cho các bà mẹ đang cho con bú một lượng canxi bổ sung thích hợp.

Sau thời kỳ sơ sinh, một lượng sản phẩm sữa nhất định phải được cung cấp hàng ngày. Lượng sữa hàng ngày của trẻ từ 1 đến 3 tuổi không dưới 600 mL, lượng sữa hàng ngày của trẻ mẫu giáo là 400-500 mL và lượng sữa hàng ngày của trẻ trong độ tuổi đi học là 300 mL.

Các loại thực phẩm từ đậu rất giàu canxi và có khả năng hấp thụ tốt, là một loại thực phẩm bổ sung canxi khác ngoài các loại thực phẩm từ sữa, các loại rau lá xanh cũng có một hàm lượng canxi nhất định nhưng khả năng hấp thụ tương đối kém.

Canxi: Uống sữa không đủ, có thể cân nhắc đến bổ sung viên canxi. Theo các chế phẩm canxi được sử dụng phổ biến đã được Cục Quản lý Sản phẩm Y tế Quốc gia phê duyệt, các chế phẩm canxi có hàm lượng canxi cao, dễ hòa tan và mùi vị tốt là canxi cacbonat dạng hạt.

Tất nhiên, chỉ cần chú ý đến mọi thứ là chưa đủ, việc bổ sung canxi không được vượt quá mức cần thiết để tránh các nguy cơ khác như tăng canxi huyết.

7, Đặc điểm của các bệnh thường gặp là gì?

Dậy thì muộn do thể chất: Thường là do tiền sử gia đình, cân nặng và chiều cao khi sinh bình thường; chậm phát triển có thể xảy ra từ khi còn nhỏ và tốc độ tăng trưởng gần với giới hạn dưới của bình thường; chiều cao và tuổi phù hợp với tuổi xương, nhưng ít hơn đáng kể so với tuổi thực ; Nồng độ GH (hormone tăng trưởng), IGF-1 (yếu tố tăng trưởng giống insulin-1) bình thường hoặc thiếu một phần GH; không có bệnh cơ địa; tốc độ tăng trưởng bình thường khi dậy thì muộn và cuối cùng có chiều cao bình thường suốt đời.

Tầm vóc thấp do gia đình: Có 1 hoặc nhiều người bị thấp lùn không rõ nguyên nhân trong gia đình trực hệ, mà chiều cao của bố mẹ dưới thứ 10 tỷ lệ phần trăm dân số bình thường; trẻ không có tiền sử bệnh chuyển hóa mãn tính hoặc di truyền và cân nặng sơ sinh và chiều cao bình thường, tốc độ phát triển hàng năm ở giới hạn dưới của bình thường, tuổi xương gần bằng tuổi thực, phát triển giới tính và trí tuệ bình thường, nồng độ GH và IGF-1 bình thường.

Thiếu hormone tăng trưởng: Chủ yếu là yếu tố nguyên phát, vóc dáng thấp, cân đối, có một hoặc nhiều đặc điểm lâm sàng, sau khi được kích thích bằng thuốc (arginine và clonidine), giá trị đỉnh GH đều <10 μg / L, và tốc độ tăng trưởng hàng năm <5 cm.

Giá trị đỉnh của GH <5 μg / L là cho sự thiếu hụt hoàn toàn hormone tăng trưởng (CGHD) và 5-10 μg / L là cho sự thiếu hụt một phần hormone tăng trưởng (PGHD).

Chiều cao thấp tự phát: Chiều cao thấp cân xứng không rõ căn nguyên, trọng lượng sơ sinh và chiều dài cơ thể ở mức bình thường, không có kiểu hình bất thường, thấp hơn trẻ cùng tuổi từ nhỏ, tốc độ tăng trưởng hàng năm chậm hơn; đỉnh kích thích GH ≥10 μg / L; loại trừ nội tiết và các bệnh hữu cơ mãn tính.

Suy giáp nguyên phát: Là do không tiết đủ hormone tuyến giáp. Những đứa trẻ điển hình cho thấy sự chậm trễ đáng kể trong tăng trưởng và phát triển, thể hiện tầm vóc thấp bé không cân xứng, trí thông minh thấp, tỷ lệ trao đổi chất cơ bản thấp, khuôn mặt đặc biệt và tuổi xương tụt hậu rõ rệt. Có thể phát hiện chảy máu TT3, TT4 giảm, TSH tăng.

Chậm phát triển trong tử cung: Chậm phát triển trong tử cung thường được chẩn đoán đối với trẻ sinh đủ tháng cân nặng dưới 2,5kg.

Xem thêm  Tỷ lệ mắc ung thư phổi ở Việt Nam rất cao: "Thủ phạm" chính là một thói quen đơn giản

Chậm phát triển do thiếu dinh dưỡng: Có thể gặp ở mọi lứa tuổi, trẻ thiếu calo và dinh dưỡng rõ rệt, không có tư thế lùn đặc trưng của tuyến yên, mức độ thấp bé hơn GHD và có biểu hiện lâm sàng của suy dinh dưỡng.

Khám nội tiết thường có hiện tượng phân tách là nồng độ GH không thấp và hàm lượng IGF-1 giảm sẽ dẫn đến độ trễ của tuổi xương.

Chậm phát triển do thiếu dinh dưỡng là tạm thời, nếu phục hồi đủ dinh dưỡng và điều chỉnh cơ cấu khẩu phần ăn cho hợp lý thì có thể tăng trưởng nhanh, nhưng người cao tuổi mắc bệnh thì không thể bắt kịp bình thường.

8, Những “manh mối” có giá trị cần được cung cấp khi đưa trẻ đến khám bác sĩ

Độ tuổi của cha mẹ mà họ hàng gần kết hôn và sự phát triển thời trẻ của cha mẹ, cũng như chiều cao của họ hàng cấp một và cấp hai.

Tiền sử sinh của trẻ (nếu có bất kỳ rối loạn phát triển trong tử cung và các biến chứng khi sinh).

Dữ liệu ghi lại sự tăng trưởng thể chất liên tục của trẻ.

Tiền sử trong quá khứ (có hoặc không mắc các bệnh mãn tính hoặc các triệu chứng liên quan, tình trạng dùng thuốc, tình trạng dinh dưỡng, bao gồm tiền sử nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ).

9, Ý nghĩa của mối quan hệ giữa chiều cao và cân nặng đối với chẩn đoán

Chiều cao thụt lùi và cân nặng so với chiều cao (so với cân nặng cùng điều kiện chiều cao) bình thường chứng tỏ đã bị suy dinh dưỡng, đã phục hồi cân nặng nhưng chưa phục hồi chiều cao hoặc thiếu hormone tăng trưởng.

Chậm tăng trưởng về chiều cao, cân nặng theo chiều cao, cân nặng theo tuổi là suy dinh dưỡng.

Một người bị thụt lùi về chiều cao nhưng lại thừa cân về trọng lượng có thể là một bệnh nội tiết, chẳng hạn như hội chứng Cushing và suy giáp.

* Phần chuyên môn sâu liên quan trong bài viết này chỉ dành cho các chuyên gia y tế đọc để tham khảo.

Tại sao cần phải đi khám để kiểm tra?

Nhiều bậc phụ huynh có hiểu lầm này: Khi đến bệnh viện là phải xét nghiệm, không phải là do bác sĩ muốn kiếm tiền. Do đó, cho dù là người quen thì bác sĩ vẫn khuyên họ đưa con đi kiểm tra, chẳng lẽ cũng là “kiếm tiền” từ người quen? Dĩ nhiên là không!

Như đã đề cập trước đó, có rất nhiều nguyên nhân khiến trẻ thấp lùn nên ngay cả người quen cũng không thể phán đoán tù mù được, việc thăm khám nhằm phán đoán chính xác nguyên nhân gây bệnh và mở đường điều trị tốt hơn cho trẻ. Việc kiểm tra cụ thể như sau:

– Xác định tuổi xương;

– Xét nghiệm công thức máu, xét nghiệm nước tiểu, chức năng gan và thận và các xét nghiệm sinh hóa khác;

– Chỉ số chức năng tuyến giáp;

– Chỉ số đo lường hormone tăng trưởng (GH) (hai loại thuốc, arginine hydrochloride và levodopa, cho thí nghiệm kích thích hormone tăng trưởng);

– Siêu âm kiểm tra gan, lá lách, tuyến thượng thận và khoang bụng. Bé gái cần xét nghiệm thêm về tử cung, hình thái buồng trứng, nhiễm sắc thể;

– Chụp cộng hưởng từ đầu (nên thực hiện kiểm tra hình ảnh, ngoại trừ khối u hoặc bất thường phát triển bẩm sinh);

– Kiểm tra đặc biệt: Xác định mức độ yếu tố tăng trưởng giống insulin-1 (IGF-1) trong máu và yếu tố tăng trưởng giống insulin liên kết với protein-3 (IGFBP-3).

Hầu hết các bậc cha mẹ đều nghe nói đến hormone tăng trưởng, vậy có phải trẻ thấp bé cũng có thể uống hormone tăng trưởng được không?

Những trẻ nào có thể sử dụng hormone tăng trưởng? Khi nào là thời điểm tốt nhất để sử dụng nó?

– Thiếu hụt hormone tăng trưởng (chẩn đoán sớm, sử dụng hormone tăng trưởng sớm để đạt được chiều cao tối đa ở giai đoạn tiền dậy thì).

– Suy thận mãn tính.

– Hội chứng Turner (khi chiều cao dưới phân vị thứ 5 của đường cong tăng trưởng bình thường của trẻ gái, nên bắt đầu điều trị GH và có thể bắt đầu sớm nhất là khi trẻ 2 tuổi.)

– Hội chứng Prader-Willi (Người ta tin rằng bắt đầu điều trị hormone tăng trưởng vào khoảng 2 tuổi trước khi béo phì xảy ra là có lợi).

– Trẻ nhỏ hơn tuổi thai không có tốc độ tăng trưởng bắt kịp (hầu hết các chuyên gia cho rằng trẻ trên 3 tuổi có chiều cao dưới 2 độ lệch chuẩn có thể được xem xét điều trị bằng hormone tăng trưởng).

– Thể thấp lùn vô căn (Nếu chiều cao nhỏ hơn 2-3 độ lệch chuẩn của chiều cao trung bình thì nên bắt đầu điều trị từ 5 tuổi đến đầu tuổi vị thành niên).

– Lỗi gen SHOX

– Hội chứng noonan

– Liệu trình điều trị hormone tăng trưởng tùy theo nhu cầu, thường từ 1 đến 2 năm, liệu trình điều trị quá ngắn và ít có tác dụng cao suốt đời.

Bài viết gốc tham khảo số liệu từ nhiều nguồn.

*Theo The Paper, Weixin, Soha